Khi lỗi thuộc về những vì sao
Phan_8
Không phải là tôi đã có một ký ức đẹp, đang để khắc cốt ghi tâm về một người cha khỏe mạnh đang đẩy chiếc đu cho một bé giá mạnh khỏe và đứa con gái cứ phấn khích kêu cao hơn cao hơn hay những khoảnh khắc rung động nào khác. Bộ đánh đu vẫn hiện diện ở đằng xa, hoang phế, hai dây đu nhỏ treo im lìm và buồn bã trên một tấm gỗ xám xịt dùng làm ghế da. Cả bộ đánh đu mang hình ảnh một nụ cười nguệch ngoạc do con nít vẽ.
Tôi nghe tiếng cửa trượt mở phía sau lưng. Tôi quay lại và thấy Augustus, hôm nay anh mặc quần kaki và áo kẻ sọc ngắn tay cài nút. Tôi quệt tay áo lau nước mắt và mỉm cười. “Chào anh!”
Mất một giây để anh ngồi phệt xuống cạnh tôi, và mặt anh nhăn nhó khi anh đặt mông đánh ịch xuống nền đất. “Chào em!” cuối cùng anh cất tiếng. Tôi nhìn anh. Anh nhìn qua vai tôi ra phía đằng xa. “Anh hiểu sao em khóc rồi,” anh nói khi vòng tay qua vai tôi. “Đó là một chiếc đu buồn hắt buồn hiu.”
Tôi tựa đầu vào vai ạnh. “Cảm ơn anh đã ghé qua.”
“Em thấy chưa, em có cố gắng giữ khoảng cách với anh cũng sẽ không làm giảm bớt tình cảm của anh đối với em đâu.”
“Có lẽ vậy.”
“Mọi nỗ lực cứu anh thoát khỏi em đều sẽ thất bại thôi.”
“Tại sao? Tại sao anh lại thích em? Bộ anh chưa thấy đủ phiền toái sao?” Tôi hỏi mà trong đầu cứ nghĩ đến chị Caroline Mathers.
Gus không trả lời. Anh chỉ giữ chặt vai tôi, các ngón tay anh siết chặt cánh tay trái tôi. “Chúng ta phải giải quyết bộ đánh đu chết bầm này thôi! Anh cam đoan đây là chín mươi phần trăm vấn đề của em đó.”
Khi tôi đã trấn tĩnh trở lại, chúng tôi đi vào trong và ngồi xuống cạnh nhau trên ghế xô-pha, chiếc laptop đặt một nửa trên chân (giả) của anh và một nửa trên chân tôi. “Nóng quá!” tôi nhận xét về đế chiếc laptop. Anh cười lém lỉnh, “Mới ngồi kế anh mà đã ‘nóng’ rồi hả?”
Gus đăng nhập trang bán rẻ gọi là Free No Catch và hai đứa cùng viết một mẩu quảng cáo. Ạnh hỏi:
“Ghi tựa sao đây?”
“Chiếc Đu Cần Tìm Nơi Lưu Trú.”
“Chiếc Đu Cô Đơn Lẻ Bóng Cần Tìm Mái Ấm Nương Thân.”
“Chiếc Đu Cô Đơn Hơi-Bị-Mê-Con-Nít Đang Tìm Mông Trẻ Em.”
Anh phá ra cười. “Thấy chưa?”
“Thấy gì?”
“Đó là lí do tại sao anh thích em. Em có biết hiếm hoi lắm mới có duyên gặp gỡ một cô nàng vừa xinh đẹp vừa có biệt tài tạo ra tính từ như mê con nít không? Em quá bận rộn là chính em nên em không hề biết mình độc đáo vô đối thế nào đâu.”
Tôi hít một hơi thật sâu bằng mũi. Chưa bao giờ thế giới này đủ không khí cho tôi hít thở, nhưng lúc này đây càng đặc biệt thiết hụt nghiêm trọng.
Chúng tôi cùng viết quảng cáo, cùng chỉnh từng lời từng chữ cho đến khi hoàn toàn hài lòng với phiên bản sau:
Chiếc Đu Cô Đơn Lẻ Bóng Cần Tìm Mái Ấm Nương Thân
Một bộ đánh đu, tuy cũ kỹ nhưng vẫn còn chắc chắn, đang tìm mái ấm mới. Hãy tạo dựng kỷ niệm đẹp với con (cái) của bạn, để một ngày nào đó chúng nhìn vào chiếc đu ở sân sau và có cảm giác đau nhói ở tim như tình cảnh tuyệt vọng của tôi chiều nay. Cảm giác đó có thể mỏng manh và thoáng qua, thưa quý độc giả kính mến. Nhưng cùng với chiếc đu này, con (cái) của bạn sẽ làm quen với những thăng - trầm của kiếp người một cách nhẹ nhàng mà an toàn, hay cũng có thể rút ra bài học quan trọng nhất: Dù có đẩy mạnh thế nào, đu cao ra sao, cũng không thể đu trọn một vòng ba trăm sáu mươi độ.
Bộ đu hiện đang cư trú gần số 83 và Spring Mill.
Sau đó, chúng tôi bật ti-vi để xem một chốc. Nhưng vì không tìm thấy chương trình nào hay nên tôi chạy vào chộp lấy cuốn Nỗi đau tột cùng trên chiếc bàn kê cạnh giường ngủ và mang nó ra phòng khách. Augustus Waters đọc cho tôi nghe trong khi Mẹ cũng vừa chuẩn bị bữa trưa vừa lắng nghe.
“Con mắt giả của Mẹ thụt vào trong,” Augustus bắt đầu đọc. Khi anh đọc, tôi thấy mình đang đắm chìm trong tình yêu của anh như cách ta chìm vào giấc ngủ: từ từ không vội vã và đột nhiên say sưa từ lúc nào không hay.
Khi kiểm tra email một giờ sau đó, tôi thấy có khá nhiều người muốn nhận bộ đánh đu, tha hồ cho chúng tôi chọn lọc. Cuối cùng, chúng tôi chọn được một người tên là Daniel Alvarez, vì ông ấy đã đính kèm hình chụp ba nhóc tì ở nhà đang chụm đầu chơi điện tử, và ở dòng tiêu đề như ông ghi: Tôi chỉ muốn chúng được chơi đùa ngoài trời. Tôi gửi email trả lời ông rằng khi nào rảnh cứ đến lấy nó.
Augustus hỏi tôi có muốn đi với anh đến Hội Tương Trợ không, nhưng tôi thực sự mệt sau một ngày đứ đừ Mang Căn Bệnh Ung Thư Trong Người nên quyết định ở nhà. Đang ngồi trên ghế xô-pha cùng tôi thì anh đẩy người đứng dậy định đi. Rồi anh chợt ngồi xuống lại và bất ngờ hôn trộm lên má tôi.
“Augustus!” tôi kêu lên.
“Tình thương mến thương thôi mà!” anh nói. Xong anh lại đẩy mình đứng lên và lần này anh bước hai bước về phía Mẹ và chào, “Cháu luôn thấy vui vẻ khi gặp bác ạ,” Mẹ dang hai tay ra ôm anh. Augustus cúi xuống hôn lên má bà và quay sang hỏi tôi: “Em thấy chưa?”
Tôi đi ngủ ngay sau khi ăn tối và máy thỏ BiPAP tách tôi ra khỏi thế giới bên ngoài căn phòng.
Từ đó, tôi không bao giờ nhìn thấy chiếc đu nữa.
Tôi ngủ một giấc thật lâu, mười tiếng đồng hồ. Có thể do bệnh tình chậm hồi phục và ngủ nghê giúp chữa lành ưng thư, cũng có thể tôi là cô gái tuổi trăng tròn không có thời gian thức giấc cụ thể. Tôi cũng chưa khỏe hẳn để đi học lại ở trường MCC. Khi tôi cảm thấy đã tỉnh ngủ, tôi tháo mặt nạ thở của máy BiPAP ra khỏi mũi, thay bằng đầu phun ô-xy đặt ở lỗ mũ. Tiếp theo tôi lôi laptop từ dưới gầm giường ra, chỗ tôi cất nó hồi đêm trước.
Tôi nhận được một email từ chị Lidewij Vliegenthart gửi.
Em Hazel thân mến,
Chị đã nhận được thông tin qua các vị thần Genie là em sẽ sang thăm chúng tôi từ ngày 4 tháng Năm này, cùng với Augustus Waters và mẹ em. Chỉ có một tuần ngắn ngủi thôi! Chú Peter và chị rất vui mừng và mong đến ngày được gặp em. Khách sạn Filosoof nơi em ở chỉ cách nhà chú Peter một con đường à. Nhưng có lẽ nên để em nghỉ ngơi một ngày để bớt say máy bay chứ, đúng không nào? Nên nếu không có gì bất tiện thì chúng ta sẽ gặp nhau tại nhà của chú Peter vào sáng ngày 5 tháng Năm, khoảng mười giờ, cùng dùng cà phê và để chú Peter trả lời các câu hỏi em muốn biết về cuốn sách nhé. Sau đó chúng ta có thể đi tham quan bảo tàng hay Nhà lưu niệm Anne Frank?
Chúc em những điều tốt đẹp nhất,
Lidewij Vliegenthart
Trợ lý Điều hành ở Ô.Peter Van Houten, tác giả cuốn Nỗi đau tột cùng
…
“Mẹ ơi,” tôi gọi. Bà không trả lời. “MẸ ƠI!” tôi la lên. Không có động tĩnh gì. Tôi gào lên làn nữa, to hơn, “MẸ Ơi!”
Mẹ tôi chạy vào, trên người quấn một chiếc khăn màu hồng mòn xơ cả chỉ, nước vẫn đang nhỏ tong tong thành giọt. Giọng bà hơi hoàng hốt, “Có chuyện gì vậy con?”
“Không có gì ạ. Con xin lỗi, con không biết là Mẹ đang trong phòng tắm,” tôi ấp úng nói.
“Mẹ đang tắm, Mẹ chỉ... ” bà nhắm mắt lại, thở hắt ra. “Chỉ mới tắm có năm giây thôi. Mà thôi, chuyện gì vậy con?”
“Mẹ có thể gọi các vị thần Genie và nói cho họ biết chuyến đi đã bị hủy không? Con vừa nhận một email từ trợ lý của Peter Van Houten và chị ấy nghĩ rằng chúng ra sắp sang đó.”
Bà mím môi và liếc qua tôi. Tôi hỏi:
“Sao ạ?”
“Mẹ không được nói con biết cho đến khi Ba về đến nhà.”
“Sao ạ?” Tôi vẫn ngoan cố hỏi.
Cuối cùng Mẹ nói: “Chúng ta vẫn đi. Đêm qua Bác sĩ Maria gọi đến và cố gắng thuyết phục rằng con cần được sống theo—”
“MẸ, CON YÊU MẸ NHẤT TRẦN ĐỜI!” Tôi sung sướng hét vang. Mẹ bước đến gần giường để tôi có thể vòng tay ôm bà.
Sau đó, tôi nhắn tin cho Augustus vì tôi biết anh còn đang học:
Vẫn rảnh vào ngày ba tháng Năm chứ? :-)
Anh nhắn lại ngay lập tức.
Waters đang chuẩn bị mọi thứ cho ngày đó.
Nếu tôi có thể sống thêm một tuần, tôi muốn biết những bí mật bất thành văn về mẹ của Anna và Chú Tulip Hà Lan. Tôi nhìn xuống ngực áo mình.
“Chúng mày ráng ngoan nhé!” Tôi thì thầm với hai lá phổi của mình.
Chương 9
Trước ngày chúng tôi lên đường đi Amsterdam, tôi có đến tham dự Hội Tương Trợ, cũng là lần đầu tiên tôi quay lại kể từ khi gặp Augustus. Và trong Trái Tim của Chúa Giêsu, màn tự giới thiệu lúc này xoay vòng nhanh hơn một chút vì vắng mặt một hai diễn viên quen thuộc. Tôi đến sớm, vừa đủ thời gian cho nữ chiến binh ung thư ruột thừa mãi mãi mạnh mẽ Lida kể cho tình hình của tất cả mọi người trong nhóm trong khi tôi đứng tựa vào bàn thức ăn nhẹ, nhấm nháp một miếng bánh quy hạt sô-cô-la vụn mua ở cửa hàng tạp hóa.
Em Michael mười hai tuổi bị bệnh bạch cầu đã qua đời. Em ấy đã chiến đấu anh dũng, Lida hùng hồn nói, như thể có một cách khác để chiến đấu vậy. Những người khác vẫn còn đầy đủ. Ken đã được xác nhận NEC sau khi xạ trị. Lucas thì bệnh cũ tái phát, cô nàng nói với một nụ cười buồn kèm một cái nhún vai như cách ta thường nói về một người nghiện rượu đã ‘ngựa quen đường cũ’ vậy.
Một cô bé mũm mĩm, dễ thương đến chỗ bàn chúng tôi, chào Lida rồi tự giới thiệu tên với tôi là Susan. Tôi không biết cô bé từng bị gì nhưng trên mặt cô có một vết sẹo khéo dài từ cánh mũi xuống môi, nằm dọc trên má cô. Cô bé đã giặm phấn trang điểm che vết sẹo, mà kết quả chỉ càng khiến nó lộ ra. Tôi cảm thấy hơi hụt hơi khi đã đứng một lúc nên nói, “Chị kiếm chỗ ngồi đây.” Sau đó của thang máy mở ra và tôi thấy Issac cùng mẹ anh ấy. Hôm nay anh đeo kính mắt, một tay nắm tay mẹ còn tay kia cầm gậy.
“Hazel Hội Tương Trợ không phải Monica đây!” Tôi chào khi anh đến gần. Anh mỉm cười và kêu lên, “A, Hazel, khỏe không em?”
“Khỏe ạ. Này, em ngày càng xinh xẻo kể từ khi anh mù đi đó.”
“Ừ chắc vậy,” anh bảo. Mẹ anh dẫn anh đến một cái ghế, âu yếm hôn lên trán anh và quay trở lại thang máy. Anh quơ tay sờ tìm mặt ghế rồi ngồi xuống, tôi cũng đến ngồi bên cạnh anh. “Còn anh sao rồi?”
“Vẫn khỏe. Xuất viện về nhà vui hơn, anh đoán vậy. Gus nói với anh là em phải vào Phòng chăm sóc đặc biệt ICU, đúng không?”
“Dạ.”
“Chán quá ha!”
“Em khỏe hơn nhiều rồi. Mai em sẽ đi Amsterdam với anh Gus đó.”
“Anh biết. Anh được cập nhật khá sít sao về cuộc sống của em đó. Vì thằng Gus nó chẳng bao giờ Nói. Về. Chuyện. Gì. Khác. Cả.”
Tôi mỉm cười. Patrick hắng giọng: “Mời tất cả ổn định chỗ ngồi nào!” Anh bắt gặp ánh mắt của tôi. “Hazel! Anh rất vui khi thấy em hôm nay.”
Khi mọi người đã yên vị, anh Patrick bắt đầu kể lại câu chuyện bị cắt tinh hoàn của anh. Và tôi lại rơi vào lối sinh hoạt quan thuộc của Hội Tương Trợ: giao tiếp bằng tiếng thở dài với anh Issac, cảm thấy đáng tiếc cho tất cả mọi người trong phòng và cả thế giới bên ngoài nữa, cố tách khỏi buổi nói chuyện để tập trung vào chứng khó thở và cơn đau trong lồng ngực của mình. Thế giới vẫn tiếp diễn như vốn dĩ mà không cần có sự tham gia lên tiếng của tôi. Và tôi chỉ bị đánh thức khỏi cơn mơ màng khi có ai đó nêu tên tôi.
Đó là Lida Mạnh Mẽ. Lida đã thuyên giảm bệnh tình. Lida tóc vàng, cao to, khỏe mạnh, có tên trong đội bơi ở trường trung học. Lida, chỉ bị thiếu duy nhất khúc ruột thừa, đã nêu tên trong bài phát biểu của cô nàng, “Hazel là nguồn cảm hứng cho tôi; bạn ấy thực sự là tấm gương cho tôi noi theo. Bạn cứ mải mê chiến đấu, mỗi sáng thức dậy là ra chiến trường mà không một lời phàn nàn gì. Bạn ấy thật mạnh mẽ. Bạn ấy mạnh mẽ hơn cả tôi. Tôi chỉ ước mình có được sức mạnh đó.”
“Hazel,” anh Patrick hỏi. “Em thấy sao khi nghe vậy?”
Tôi nhún vui và nhìn qua Lida. “Tôi sẽ cho bạn sức mạnh của tôi nếu đổi lại bệnh tình của tôi có thể thuyên giảm như bạn.” Và lập tức thấy hối hận vì câu đó.
Patrick đính chính: “Anh không nghĩ ý của Lida là vậy đâu. Anh nghĩ bạn ấy...” Nhưng tôi chẳng buồn nghe tiếp.
Sau khi cầu nguyện cho cả người đang sống và danh sách dài vô tận những người đã chết (với tên Michael được đưa vào cuối cùng), chúng tôi cùng nắm tay nhau đồng thanh: “Hãy sống thật tốt cho ngày hôm nay!”
Lida lập tức lao đến chỗ tôi định xin lỗi và giải thích này nọ. Nhưng tôi đã phẩy tay ngăn cô nàng lại, “Không, không, mình thực sự không sao.” Kế đó tôi quay sang nói với anh Issac, “Anh có muốn đi cùng em ra ngoài không?”
Anh nắm lấy tay tôi, và tôi đi cùng anh ra thang máy, hí hửng vì có cớ để tránh đi thang bộ. Khi đến gần thang máy, tôi nhìn thấy mẹ anh đang đứng trong một góc của Trái Tim. “Mẹ đây,” cô nói với Issac, và anh chuyển từ tay tôi sang nắm tay mẹ mình rồi hỏi, “Em có muốn đến chơi nhà anh không?”
“Được ạ!” Tôi đáp. Tôi cảm thấy tội tội anh. Mặc dù tôi ghét ai thương hại mình nhưng tôi không thể ngăn mình không thương cảm cho anh.
Anh Issac sống trong một trang trại nhỏ ở Meridian Hills bên cạnh một trường tư khang trang đẹp đẽ. Chúng tôi ngồi ở phòng khách trong khi mẹ anh vào bếp chuẩn bị bữa tối. Thế là anh hỏi tôi có muốn chơi điện tử với anh không.
“Được ạ,” tôi đáp. Anh hỏi tìm điều khiển từ xa, tôi bèn đưa nó cho anh. Anh lần lượt mở ti-vi và cái máy tính gắn liền với nó. Màn hình ti-vi vẫn đen thui, nhưng một vài giây sau, một giọng nói trầm trầm phát ra từ nó.
“Bản Deception. Một người chơi hay hai người chơi?”
“Hai,” Issac nói. “Tạm dừng.” Anh quay sang tôi giải thích, “Anh chơi trò này với Gus suốt. Nhưng đáng giận ở chỗ tên đó chơi như tự sát vậy, lúc nào cũng hung hăng cứu giúp thường dân và mấy nhân vật tép riu.”
“Dạ,” tôi nói, chợt nhớ đến buổi tối đập phá cúp.
“Tiếp tục,” Issac nói.
“Game thủ thứ nhất, vui lòng xác minh danh tính.”
“Đây là giọng nói quyến rũ chết người của game thủ thứ nhất,” Issac nói.
“Game thủ thứ hai, vui lòng xác minh danh tính.”
“Tôi sẽ là game thủ thứ hai, chắc vậy,” tôi lên tiếng.
Trung sĩ Max Mayhem và Thám tử tư Jasper Jacks tỉnh dậy trong một căn phòng tối rộng khoảng hơn bốn thước vuông, trống huơ trống hoác.
Issac chỉ về phía ti-vi, giống như kêu tôi nói chuyện với nó hay làm gì đó. “Ừm,” tôi nói. “Có công tắc điện không?”
Không.
“Có cửa ra vào không?”
Thám tử Jacks tìm ra cánh cửa. Nó bị khóa.
Issac chen vào. “Có một chìa khóa ở trên khung cửa.”
Ừ, có.
“Mayhem mở cửa đi.”
Bóng tối vẫn còn dày đặc.
“Rút dao ra,” Issac ra lệnh.
“Rút dao ra,” tôi thêm vào.
Một cậu bé — chắc là em trai của Issac — phóng ra từ nhà bếp. Cậu nhóc khoảng mười tuổi, dẻo dai, hơi hiếu động, nhảy chân sáo băng ngang qua phòng khách trước khi nhái y hệt giọng của anh Issac, gào lên, “TỰ TỬ ĐI!”
Trung sĩ Mayhem kê con dao vào cổ mình. Có chắc là —
“Không,” Issac chen vào. “Tạm dừng. Graham, coi chừng anh đá đít em bây giờ.” Nhóc Graham cười nắc nẻ rồi biến mất cuối lối đi.
Như Mayhem và Jacks thực thụ, anh Issac và tôi lần tìm lối ra trong hang động cho đến khi va vào một gã. Nhò gã này mà chúng tôi biết được mình đang bị giam trong một nhà tù Ukraine, nằm sâu trong một hang động cách mặt đất hơn một dặm. Sau khi thủ tiêu gã này, chúng tôi tiếp tục dò đường. Lúc này, hiệu ứng âm thanh sống động — một con sông gầm gừ chảy xiết dưới lòng đất, nhiều người xôn xao nói tiếng Ukraine bằng giọng Anh — dẫn chúng tôi xuyên qua hang động, nhưng trò chơi này chỉ một màu đen tuyền nên không thể thấy gì trong bóng tối. Sau khi chơi trong một giờ, chúng tôi bắt đầu nghe thấy tiếng cầu xin yếu ớt của một tù nhân tuyệt vọng, “Chúa ơi, xin Người giúp con, xin Người cứu con.”
“Tạm dừng,” anh Issac lại nói. “Ở đoạn này lúc nào Gus cũng một mực đòi tìm cho được tù nhân dù khi đó sẽ không thắng. Và cách duy nhất để thực sự giải phóng tù nhân là giành chiến thắng trong cuộc chơi.”
“Dạ, anh ấy hơi thật tình khi chơi điện tử,” tôi đáp. “Anh ấy hơi bị say mê với phép ẩn dụ.”
“Thế em có thích Gus không?” Issac chợt hỏi.
“Dĩ nhiên là em thích anh ấy rồi. Anh ấy thật tuyệt vời.”
“Nhưng mà em không muốn cặp với hắn à?”
Tôi nhún vai. “Chuyện phức tạp lắm.”
“Anh biết em đang cố gắng vì em không muốn đẩy hắn đến một tình huống không thể đối mặt. Em không muốn hắn Monica em.”
“Đại loại thế,” tôi đáp. Nhưng không hẳn vậy. Sự thật là, tôi không muốn Issac anh ấy. “Mà để công bằng với chị Monica, những gì anh đã làm với chị cũng không hay lắm đâu.”
“Anh đã làm gì chị ấy chứ?” Anh hỏi vẻ tự vệ.
“Anh biết đấy, bị mù và tất cả mọi chuyện.”
“Nhưng đó không phải lỗi của anh.”
“Em không nói đó là lỗi của anh. Em chỉ nói chuyện đó không hay thôi.
Chương 10
Chúng tôi chỉ có thể mang một va-li. Tôi không thể mang vác gì còn Mẹ khăng khăng bảo bà không thể xách hai va-li. Cho nên chúng tôi phải khéo léo sắp đồ vào chiếc va-li màu đen — món quà cưới mà Ba Mẹ tôi đã nhận được từ một triệu năm trước đây, chiếc va-li tưởng sẽ được chu du qua những miền đất hứa, nhưng cuối cùng quanh đi quẩn lại chỉ mỗi Dayton, nơi Công ty Bất động sản Morris có một văn phòng vệ tinh mà Ba phải thường xuyên đến công tác.
Tôi tranh luận với Mẹ rằng nên dành cho tôi hơn một nửa va-li, vì nếu không có tôi và bệnh ung thư của tôi thì ngay từ đầu chúng tôi sẽ không bao giờ được đi Amsterdam. Mẹ phản đối rằng do bà to gấp đôi tôi nên cần mặc nhiều vải để giữ gìn sự đoan trang thùy mị của mình, bà xứng đáng có ít nhất hai phần ba chiếc va-li.
Cuối cùng, cả hai mẹ con đều đuối lý. Nên đành mặc kệ.
Chuyến bay của chúng tôi khởi hành vào giữa trưa. Vậy mà Mẹ đánh thức tôi dậy lúc năm giờ ba mươi phút, vừa bật đèn phòng vừa réo, “AM-STERDAM!” Bà cứ chạy vòng vòng khắp nhà cả buổi sáng, để đảm bảo rằng chúng tôi không quên ổ cắm biến điện, kiểm tra năm lần bảy lượt xem chúng tôi đã có đủ bình ô-xy và tất cả các bình đều đầy khí chưa, vân vân và vân vân, trong khi tôi chỉ cần nhấc lưng khỏi giường và chui ngày vào Bộ Vía Du Lịch Amsterdam của mình (quần jean, áo hai dây màu hồng và chiếc áo len màu đen trong trường hợp máy bay bật nhiệt độ thấp).
Đồ đạc được chất lên xe vào lúc sáu giờ mười lăm phút, rồi Mẹ nhất quyết đòi hai mẹ con phải ăn sáng với Ba, mặc dù tôi luôn phản đối chuyện ăn sáng trước khi bình minh ló dạng. Tôi không phải là nông dân Nga thế kỷ mười chín cần ních đầy bụng cho một ngày lao động cực nhọc ngoài đồng. Nhưng dù sao tôi cũng cố lót dạ vài quả trứng luộc trong khi Ba và Mẹ thưởng thức món bánh burger kẹp trứng tự làm theo kiểu McMuffins khoái khẩu. Tôi tò mò hỏi:
“Tại sao chúng ta lại ăn thức ăn sáng vào bữa sáng? Giống như, tại sao chúng ra không ăn cà-ri vào bữa sáng?”
“Hazel, lo ăn đi.”
“Nhưng tại sao chứ? Con hỏi thật mà: Sao mà món trứng đánh bị liệt thành món ăn độc quyền cho bữa sáng này? Ta có thể kẹp sandwich với thịt xông khói mà chẳng ai phiền trách. Nhưng chỉ cần kẹp trứng vào sandwich là bum, nó trở thành bánh sandwich điểm tâm.”
Ba lúng túng trả lời trong khi miệng đầy đồ ăn. “Khi con trở về, chúng ta sẽ ăn tối bằng đồ ăn sáng. Chịu chưa con yêu?”
“Con không muốn ‘ăn tối bằng đồ ăn sáng’,” tôi trả lời, đặt dao và nĩa trên chiếc đĩa còn ê hề thức ăn của tôi. “Con muốn ăn trứng đánh vào bữa ăn tối mà không cần giải thích nhảm nhí là món trứng đánh chỉ dành riêng cho bữa ăn sáng ngay cả khi ta dùng nó vào giờ ăn tối.”
“Con phải tự chiến đấu trong thế giới này, Hazel,” Mẹ tôi nói. “Nhưng nếu đây là vấn đề mà con muốn tranh đấu thì Ba Mẹ sẽ đứng sau lưng ủng hộ con.”
“Hơi lấp ló phía sau thôi,” Ba tôi đế thêm làm Mẹ cười ngặt nghẽo.
Dù sao tôi cũng biết chuyện mình nêu ra khá ngốc nghếch, nhưng tôi vẫn cảm thấy tội tội cho món trứng đánh.
Sau khi ăn xong, Ba rửa chén bát rồi đưa chúng tôi ra xe. Tất nhiên là ông lại sụt sùi. Ông hôn lên má tôi với khuôn mặt ướt đẫm nước mắt. râu ria lởm chởm chưa cạo. Ông ép chặt mũi mình vào gò má của tôi và thì thầm, “Ba yêu con. Ba cũng rất tự hào về con.” (Tự hào về chuyện gì nhỉ, tôi tự hỏi.)
“Cám ơn Ba.”
“Vài ngày nữa ba con mình lại gặp nhau, được chưa con yêu? Ba yêu con rất nhiều.”
“Con cũng yêu Ba mà,” tôi mỉm cười. “Con và Mẹ chỉ đi có ba ngày thôi.”
Khi chúng tôi lái xe ra khỏi nhà, tôi vẫy tay chào Ba. Ông vẫy tay lại và nước mắt ngắn dài, khiến tôi cứ nghĩ chắc ông tưởng sẽ không bao giờ còn nhìn thấy tôi nữa. Có lẽ ông luôn nghĩ thế vào mỗi buổi sáng trước khi đi làm trong suốt phần đời còn lại của ông, thật tội cho Ba tôi.
Mẹ và tôi lái xe đến nhà của Augustus. Khi đến nơi, bà muốn tôi chờ ở trong xe để đỡ mệt nhưng tôi không chịu. Khi chúng tôi đến gần nhà, tôi nghe thấy tiếng ai khóc bên trong. Lúc đầu tôi không nghĩ đó là Gus, bởi vì chẳng giống gì với chất giọng trầm trầm của anh. Nhưng sau đó tôi nghe thấy một giọng nói chắc chắn mang âm điệu của anh nhưng đã bị biến âm. “VÌ ĐÂY LÀ CUỘC SỐNG CỦA CON, MẸ. CUỘC SỐNG CỦA CON THUỘC VỀ CON.” Và Mẹ tôi nhanh chóng choàng tay quanh vai tôi, buộc tôi quay trở lại xe, dáng vẻ gấp gáp. “Chuyện gì vậy Mẹ?”
“Chúng ta không được nghe trộm chuyện nhà người ta, Hazel.”
Hai mẹ con tôi trở vào trong xe và tôi nhắn tin cho Augustus báo rằng chúng tôi đã đến và đợi ở bên ngoài đến khi nào anh sẵn sàng khởi hành.
Chúng tôi nhìn chằm chằm vào nhà trong một lúc. Điều kỳ lạ về mấy ngôi nhà là chúng luôn giống như không có gì đang xảy ra bên trong mặc dù phần lớn cuộc sống của chúng ta đều diễn ra trong đó. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là điểm thú vị trong kiến trúc không.
Sau một hồi, Mẹ lên tiếng, “À, chắc chúng ta đến quá sớm.”
“Mẹ nói cứ như thể con không phải dậy từ lúc năm giờ ba mươi vậy,” tôi nói.
Mẹ với tay lấy cốc cà phê trên bộ điều khiển giữa chúng tôi, nhấp một ngụm. Vừa lúc đó điện thoại của tôi rung lên, là tin nhắn của Augustus.
Anh KHÔNG THỂ quyết định nên mặc đồ gì. Em thích anh mặc áo polo tròng cổ hay áo cài nút hơn?
Tôi trả lời:
Áo cài nút.
Ba mươi giây sau, cửa trước mở ra, và anh Augustus tươi cười xuất hiện, tay kéo một chiếc túi du lịch phía sau. Anh mặc quần jean, đóng thùng một chiếc áo cài nút màu xanh da trời. Điếu Camel Light bặm hờ ở khóe môi. Mẹ tôi bước ra chào anh. Anh tạm thời rút điếu thuốc ra và nói bằng một giọng tự tin mà tôi đã quen, “Cháu luôn thấy vui khi gặp bác ạ.”
Tôi quan sát gương mặt học qua gương chiếu hậu cho đến khi Mẹ mở cốp xe. Một lúc sau Augustus mở cánh cửa phía sau tôi và loay hoay ngồi vào ghế sau bằng một chân.
“Anh có muốn em nhường chỗ này không?” Tôi hỏi.
“Chẳng cần đâu. Chào em, Hazel Grace.”
“Chào anh. Okay chưa?”
“Okay rồi.”
“Okay.”
Mẹ tôi ngồi vào sau tay lái, đóng cửa xe và trịnh trọng thong báo, “Điểm dừng kế tiếp, Amsterdam.”
Và không hoàn toàn đúng như thế. Điểm dừng chân tiếp theo là bãi đậu xe sân bay, rồi đến một chiếc xe buýt đưa chúng tôi đến ga đi, và sau đó một chiếc xe điện không mui đưa chúng tôi đến vạch kiểm soát. Anh chàng Quản lý An ninh Vận chuyển đứng bên kia vạch, ở đầu dãy, dõng dạc hô hào nào là các túi hành lý không được chứa chất nổ, vũ khí hoặc chất lỏng nặng hơn một trăm gram. Tôi rủ rỉ với Augustus, “Quan sát: Đứng ngay hàng thẳng lối là một hình thức áp bức,” và anh đáp, “Nghiêm trọng.”
Thay vì bị kiểm tra bằng tay, tôi chọn cách bước qua các máy dò tìm kim loại mà không đeo bình ô-xy, giá thép hoặc thậm chí đầu phun bằng nhựa ở trong mũi. Đi bộ qua máy X-quang đánh dấu lần đầu tiên trong nhiều tháng liền, tôi cất bước mà không cần tiếp ô-xy. Và cảm giác thật tuyệt vời khi đi bộ mà không vướng víu gì, cứ sải bước tự tin vượt lên chính mình và sự im lặng của máy thừa nhận rằng tôi, dẫu chỉ trong tích tắc, là một sinh vật phi kim loại.
Tôi cảm thấy rõ rệt chủ quyền của cơ thể mình, điều mà tôi không sao mô tả được rõ ràng, chỉ có thể đưa ra một ví dụ là khi tôi còn nhỏ, tôi từng vác một chiếc ba lô nặng trịch chứa đầy sách vở đi khắp nơi. Và khi đã vác chiếc ba lô to oạch ấy đủ lâu, tôi sẽ cảm thấy như thể đang trôi bồng bềnh khi cởi nó ra.
Lưu địa chỉ wap để tiện truy cập lần sau. Từ khóa tìm kiếm: chatthugian